Các mẫu vật có tuổi thọ hàng nghìn triệu năm phản ánh lịch sử tiến hóa của vỏ trái đất từ thuở hồng hoang. Mỗi mẫu vật mang dấu ấn riêng về quá trình hình thành, phát tỏa và tuyệt diệt trong dãy tiến hóa sinh giới.

Đang xem: Những hóa thạch trăm triệu năm được lưu giữ ở việt nam

TwXTk-MITIWa-_Z-g” alt=”*”>

Phòng Tiến hóa sinh giới, thuộc Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam (18 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội) trưng bày hàng nghìn mẫu hóa thạch, đá, khoáng sản… được lựa chọn từ nhiều vùng khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam và một số nước trên thế giới. Các mẫu đá và khoáng sản được xác nhận có niên đại từ 2.936 triệu năm đến 541 triệu năm, liên quan đến quá trình hoạt động magma, trầm tích, biến chất mạnh mẽ nhất và cổ nhất trên lãnh thổ Việt Nam ở địa khu Hoàng Liên Sơn, Tây Bắc Việt Nam.

Các mẫu hóa thạch là những trang sử đá, minh họa lịch sử tiến hóa của sự sống trên trái đất qua các niên đại địa chất từ 600 triệu năm đến ngày nay. Mỗi mẫu hóa thạch đều mang dấu ấn riêng về quá trình hình thành, phát tỏa và tuyệt diệt trong dãy tiến hóa sinh giới; về điều kiện cổ địa lý; về điều kiện cổ môi trường và bối cảnh cổ kiến tạo của thời kỳ xuất hiện, phát tỏa và tuyệt diệt của nó trên trái đất.

Phòng Tiến hóa sinh giới, thuộc Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam (18 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội) trưng bày hàng nghìn mẫu hóa thạch, đá, khoáng sản… được lựa chọn từ nhiều vùng khác nhau trên lãnh thổ Việt Nam và một số nước trên thế giới. Các mẫu đá và khoáng sản được xác nhận có niên đại từ 2.936 triệu năm đến 541 triệu năm, liên quan đến quá trình hoạt động magma, trầm tích, biến chất mạnh mẽ nhất và cổ nhất trên lãnh thổ Việt Nam ở địa khu Hoàng Liên Sơn, Tây Bắc Việt Nam.

Các mẫu hóa thạch là những trang sử đá, minh họa lịch sử tiến hóa của sự sống trên trái đất qua các niên đại địa chất từ 600 triệu năm đến ngày nay. Mỗi mẫu hóa thạch đều mang dấu ấn riêng về quá trình hình thành, phát tỏa và tuyệt diệt trong dãy tiến hóa sinh giới; về điều kiện cổ địa lý; về điều kiện cổ môi trường và bối cảnh cổ kiến tạo của thời kỳ xuất hiện, phát tỏa và tuyệt diệt của nó trên trái đất.

YBZJglc
RpICMR-w” alt=”*”>

Quần thể san hô 4 tia có tên khoa học Nipponophyllum nikolaevae Khoa. Đây là loài bản địa lần đầu tiên được tiến sĩ Nguyễn Đức Khoa xác lập năm 1996 nhưng chưa công bố. Hóa thạch được sưu tập trong tầng đá vôi ám tiêu thuộc phần dưới của hệ tầng Kiến An, có “tuổi thọ” 427- 423 triệu năm.

Quần thể san hô 4 tia có tên khoa học Nipponophyllum nikolaevae Khoa. Đây là loài bản địa lần đầu tiên được tiến sĩ Nguyễn Đức Khoa xác lập năm 1996 nhưng chưa công bố. Hóa thạch được sưu tập trong tầng đá vôi ám tiêu thuộc phần dưới của hệ tầng Kiến An, có “tuổi thọ” 427- 423 triệu năm.

ME0_S_851Su7lktnr
H8w” alt=”*”>

Mẫu sứa cổ V2 có tên khoa học Cyclomedusa davidi do Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London cung cấp. Loài sứa cổ này được mô tả lần đầu trong các trầm tích của kỷ Edicaran (635-541 triệu năm) ở vùng Edicaran, phía Nam Australia, thuộc hệ động vật Ediacaran. Loài này cũng được phát hiện ở vùng Ackhangen, trên bờ Biển Trắng (Bắc Băng Dương) của khu vực Tây Bắc Liên bang Nga; trong trầm tích của kỷ Vendi, thuộc hệ động vật Vendi; có niên đại 605-543 triệu năm.

Mẫu sứa cổ V2 có tên khoa học Cyclomedusa davidi do Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên London cung cấp. Loài sứa cổ này được mô tả lần đầu trong các trầm tích của kỷ Edicaran (635-541 triệu năm) ở vùng Edicaran, phía Nam Australia, thuộc hệ động vật Ediacaran. Loài này cũng được phát hiện ở vùng Ackhangen, trên bờ Biển Trắng (Bắc Băng Dương) của khu vực Tây Bắc Liên bang Nga; trong trầm tích của kỷ Vendi, thuộc hệ động vật Vendi; có niên đại 605-543 triệu năm.

Yln5PQk
QAIYfb1UMa3MA” alt=”*”>

Bột kết chứa quặng apatit loại 1 có hàm lượng P2O5 từ 34-36%; được sưu tập trong phần giữa của của hệ tầng Cam Đường, tại mặt cắt Ngòi Đum, mỏ apatit Cam Đường (Lào Cai); ghi nhận tuổi sớm nhất của kỷ Cambri sớm, có niên đại từ 541 triệu năm trở về trước.

Bột kết chứa quặng apatit loại 1 có hàm lượng P2O5 từ 34-36%; được sưu tập trong phần giữa của của hệ tầng Cam Đường, tại mặt cắt Ngòi Đum, mỏ apatit Cam Đường (Lào Cai); ghi nhận tuổi sớm nhất của kỷ Cambri sớm, có niên đại từ 541 triệu năm trở về trước.

D22rkznc
O7GPxs52e9g” alt=”*”>

Bọ ba thùy Paradoxides gracilis thuộc ngành Chân khớp (Arthropoda), lớp Bọ ba thùy (Trilobita). Đây là hóa thạch chỉ đạo cho địa tầng Cambri trung (521-509 triệu năm) ở vùng Bohem của Cộng hòa Czech. Hóa thạch đẹp, bảo tồn hoàn chỉnh, được nhiều bảo tàng lịch sử tự nhiên trên thế giới mua để trưng bày; đồng thời cũng là mẫu chuẩn cho sinh viên thực tập bộ môn cổ sinh ở các trường đại học.

Bọ ba thùy Paradoxides gracilis thuộc ngành Chân khớp (Arthropoda), lớp Bọ ba thùy (Trilobita). Đây là hóa thạch chỉ đạo cho địa tầng Cambri trung (521-509 triệu năm) ở vùng Bohem của Cộng hòa Czech. Hóa thạch đẹp, bảo tồn hoàn chỉnh, được nhiều bảo tàng lịch sử tự nhiên trên thế giới mua để trưng bày; đồng thời cũng là mẫu chuẩn cho sinh viên thực tập bộ môn cổ sinh ở các trường đại học.

Bọ ba thùy Vietnamia douvillei (Mansuy), thuộc ngành Chân khớp (Arthropoda), lớp Bọ ba thùy (Trilobita). Các đại biểu của lớp Bọ ba thùy đã tuyệt diệt cách ngày nay 250 triệu năm. Các trầm tích chứa Bọ ba thùy Vietnamia douvillei (Mansuy) lộ ra ở vùng Nà Mọ được xếp vào hệ tầng Nà Mọ có niên đại 470-443 triệu năm, dựa trên các di tích Bọ ba thùy và hóa thạch Tay cuộn. Hóa thạch này được sưu tầm năm 2008.

Bọ ba thùy Vietnamia douvillei (Mansuy), thuộc ngành Chân khớp (Arthropoda), lớp Bọ ba thùy (Trilobita). Các đại biểu của lớp Bọ ba thùy đã tuyệt diệt cách ngày nay 250 triệu năm. Các trầm tích chứa Bọ ba thùy Vietnamia douvillei (Mansuy) lộ ra ở vùng Nà Mọ được xếp vào hệ tầng Nà Mọ có niên đại 470-443 triệu năm, dựa trên các di tích Bọ ba thùy và hóa thạch Tay cuộn. Hóa thạch này được sưu tầm năm 2008.

Mẫu Cúc đá (Ammonoidea) có tên khoa học Dumortieria lantenoisi (Mansuy), thuộc ngành Thân mềm (Mollusca), lớp Chân đầu (Cephalopoda), phụ lớp Cúc đá (Ammonoidea). Đây là loài bản địa được phát hiện và mô tả ở vùng đập thủy điện Trị An, tỉnh Đồng Nai. đặc trưng cho các trầm tích tướng biển bậc Toar (182,7-174,1 TRN). Mẫu được mua lại từ bộ sưu tập cá nhân của ông Hoàng Thành, trú tại TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk vào năm 2010.

Mẫu Cúc đá (Ammonoidea) có tên khoa học Dumortieria lantenoisi (Mansuy), thuộc ngành Thân mềm (Mollusca), lớp Chân đầu (Cephalopoda), phụ lớp Cúc đá (Ammonoidea). Đây là loài bản địa được phát hiện và mô tả ở vùng đập thủy điện Trị An, tỉnh Đồng Nai. đặc trưng cho các trầm tích tướng biển bậc Toar (182,7-174,1 TRN). Mẫu được mua lại từ bộ sưu tập cá nhân của ông Hoàng Thành, trú tại TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lăk vào năm 2010.

Xem thêm: Bread Board Test 830 Điểm Mb, Cấu Tạo Và Cách Sử Dụng Breadboard (2022)

Hóa thạch thực vật tuế chưa được định loại, tạm thời xếp vào nhóm Tuế (Cycadales); thực vật ngành Hạt trần (Gymnospermae). Mẫu được sưu tập trong các trầm tích tướng lục địa màu đỏ của hệ tầng Ea Súp, lộ rộng rãi ở các vùng Buôn Ea Súp và Bản Đôn (Đăk Lăk). Tuổi của hệ tầng được xác định là Jura giữa, ứng với khoảng 174,1-163,5 triệu năm.

Hóa thạch thực vật tuế chưa được định loại, tạm thời xếp vào nhóm Tuế (Cycadales); thực vật ngành Hạt trần (Gymnospermae). Mẫu được sưu tập trong các trầm tích tướng lục địa màu đỏ của hệ tầng Ea Súp, lộ rộng rãi ở các vùng Buôn Ea Súp và Bản Đôn (Đăk Lăk). Tuổi của hệ tầng được xác định là Jura giữa, ứng với khoảng 174,1-163,5 triệu năm.

Mẫu gỗ hóa thạch chưa được phân định loại. Đối sánh với vị trí địa tầng chứa hóa thạch gỗ silic hóa của hệ tầng Thọ Lâm ở tỉnh Quảng Nam với các hóa thạch gỗ silic trong hệ tầng Ea Súp ở Đăk Lăk; có thể giả định các hóa thạch gỗ đang trưng bày ở Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam có tuổi Jura giữa, khoảng 174,1-163,5 triệu năm. Mẫu gỗ hóa thạch này bị silic hóa được mua lại từ bô sưu tập cá nhân của ông Hoàng Thành, trú tại TP Buôn Ma Thuột (Đăk Lăk) năm 2010. Theo sổ ghi lại, ông Thành mua lại của người dân ở xã Ea Đá, huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk.

Mẫu gỗ hóa thạch chưa được phân định loại. Đối sánh với vị trí địa tầng chứa hóa thạch gỗ silic hóa của hệ tầng Thọ Lâm ở tỉnh Quảng Nam với các hóa thạch gỗ silic trong hệ tầng Ea Súp ở Đăk Lăk; có thể giả định các hóa thạch gỗ đang trưng bày ở Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam có tuổi Jura giữa, khoảng 174,1-163,5 triệu năm. Mẫu gỗ hóa thạch này bị silic hóa được mua lại từ bô sưu tập cá nhân của ông Hoàng Thành, trú tại TP Buôn Ma Thuột (Đăk Lăk) năm 2010. Theo sổ ghi lại, ông Thành mua lại của người dân ở xã Ea Đá, huyện Krông Năng, tỉnh Đăk Lăk.

Mẫu hóa thạch thực vật họ Sen, được sưu tập trong đá phiến sét đen, tướng đầm lầy của hệ tầng Na Dương ở vùng mỏ than nâu Na Dương, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Tuổi của hệ tầng chứa than nâu Na Dương là một vấn đề tranh cãi chưa có hồi kết thúc. Dựa vào tài liệu hóa thạch thực vật lá, các nhà nghiên cứu trước đây cho rằng, các thành tạo chứa than nâu có tuổi Miocen 23-5,3 triệu năm thuộc kỷ Neogen.

Mẫu hóa thạch thực vật họ Sen, được sưu tập trong đá phiến sét đen, tướng đầm lầy của hệ tầng Na Dương ở vùng mỏ than nâu Na Dương, huyện Lộc Bình, tỉnh Lạng Sơn. Tuổi của hệ tầng chứa than nâu Na Dương là một vấn đề tranh cãi chưa có hồi kết thúc. Dựa vào tài liệu hóa thạch thực vật lá, các nhà nghiên cứu trước đây cho rằng, các thành tạo chứa than nâu có tuổi Miocen 23-5,3 triệu năm thuộc kỷ Neogen.

Cá mặt trăng hay còn gọi là cá mặt trời, có tên khoa học là Mola mola (Linnaeus, 1758), thuộc họ Cá mặt trăng (Molidae) trong bộ Cá nóc (Tetraodontiformes). Đây là loài cá biển cỡ lớn, có máu nóng đầu tiên trên thế giới, có màu sắc sặc sỡ, thân ngắn, sống ngoài đại dương. Cá mặt trăng sống ở tầng mặt, phân bố rộng trên toàn thế giới, trong vùng nhiệt đới và các vùng biển ấm. Loài này có thân hình lớn nên có giá trị kinh tế cao, dễ bị phát hiện và bị sắn bắt. Do hình dạng độc đáo và ít gặp nên cá mặt trăng cũng là hiện vật qúy và hấp dẫn trong các bảo tàng động vật biển. Loài này có trong sách đỏ Việt Nam năm 2007. Ở Việt Nam, cá mặt trăng được ghi nhận có ở vịnh Bắc Bộ (khu vực đảo Bạch Long Vĩ). Ngoài ra, thời gian gần đây, ngư dân ở Nghệ An đã bắt được một con cá mặt trăng khoảng 500 kg và chuyển cho Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam bảo quản, phục vụ nghiên cứu, trưng bày.

Cá mặt trăng hay còn gọi là cá mặt trời, có tên khoa học là Mola mola (Linnaeus, 1758), thuộc họ Cá mặt trăng (Molidae) trong bộ Cá nóc (Tetraodontiformes). Đây là loài cá biển cỡ lớn, có máu nóng đầu tiên trên thế giới, có màu sắc sặc sỡ, thân ngắn, sống ngoài đại dương. Cá mặt trăng sống ở tầng mặt, phân bố rộng trên toàn thế giới, trong vùng nhiệt đới và các vùng biển ấm. Loài này có thân hình lớn nên có giá trị kinh tế cao, dễ bị phát hiện và bị sắn bắt. Do hình dạng độc đáo và ít gặp nên cá mặt trăng cũng là hiện vật qúy và hấp dẫn trong các bảo tàng động vật biển. Loài này có trong sách đỏ Việt Nam năm 2007. Ở Việt Nam, cá mặt trăng được ghi nhận có ở vịnh Bắc Bộ (khu vực đảo Bạch Long Vĩ). Ngoài ra, thời gian gần đây, ngư dân ở Nghệ An đã bắt được một con cá mặt trăng khoảng 500 kg và chuyển cho Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam bảo quản, phục vụ nghiên cứu, trưng bày.

Tháng 12 năm 2019, Viện sĩ Alexei Lopatin – Viện trưởng Viện Cổ sinh vật học/Viện HLKH Nga đã đến thăm và làm việc với các cán bộ Việt Nam của Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga để xây dựng một kế hoạch hợp tác nghiên cứu về “Thành phần khu hệ linh trưởng (Cercopithecidae, Pongidae) và động vật gặm nhấm (Rodentia) trong thế Pleixtôxen và Holoxen làm chỉ thị biến đổi các điều kiện sinh thái”. Mục tiêu chính của nghiên cứu là đánh giá tốc độ tuyệt chủng của các nhóm động vật này và thu thập dữ liệu gián tiếp về những thay đổi môi trường trong thời gian gần đây. Sau khi bàn bạc, trao đổi, nội dung nghiên cứu đã được Trung tâm Nhiệt đới Việt-Nga cùng với Viện Cổ sinh vật học thống nhất đưa vào Chương trình nghiên cứu hỗn hợp Việt-Nga giai đoạn 2020-2024 và được triển khai ngay từ đầu năm 2020.

Trong hai năm (2020-2021) các cán bộ nghiên cứu của Việt Nam và Nga đã tiến hành khảo sát, thu thập các mẫu trầm tích tại hang Làng Tráng và hang Bụt (tỉnh Thanh Hóa), hang Thẩm Hai và Thẩm Khuyên (tỉnh Lạng Sơn) ở miền Bắc Việt Nam. Kết quả phân tích bước đầu đã phát hiện được các dấu tích hóa thạch của một số loài động vật trong thế Pleixtôxen và Holoxen, trong đó có hóa thạch của 05 loài lần đầu tiên phát hiện được ở Việt Nam và 01 loài được mô tả là loài mới. Đây là những kết quả quan trọng mở ra triển vọng hợp tác nghiên cứu trong các năm tiếp theo.1. Dơi Iô Io ia Thomas, 1902Loài dơi lớn nhiệt đới quý hiếm có tên khoa học là Io ia hiện nay sống ở Nepal, Đông Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Ở Trung Quốc đã phát hiện được dấu tích hóa thạch của loài này trong trầm tích Pleixtôxen. Năm 2020, khi tiến hành nghiên cứu về cổ sinh vật tại hang Làng Tráng, tỉnh Thanh Hóa, các nhà khoa học lần đầu tiên phát hiện được một mảnh hóa thạch xương hàm dưới của loài dơi lớn Io ia trong trầm tích Pleixtôxen thượng. Về kích thước tổng thể và cấu tạo của xương hàm dưới, mẫu vật thu được từ hang Làng Tráng cho thấy có sự tương đồng lớn nhất với phụ loài Ia io peninsulata Soisook et al., 2017 sống ở miền Nam Thái Lan.

*

Mảnh xương hàm dưới bên trái của loài dơi Ia io Thomas, 1902 trong trầm tích Pleixtôxen thượng tại hang Làng Tráng, tỉnh Thanh Hóa

2. Lửng lợn Arctonyx collaris Cuvier, 1825Lửng lợn Arctonyx collaris là một trong số các loài lửng lớn nhất hiện nay với chiều dài hộp sọ đến 172-174 cm, chiều dài thân 87-88 cm và trọng lượng từ 14-21,5 kg. Hiện nay, loài này phân bố trên lãnh thổ phía Đông Ấn Độ và Đông Dương cho đến các khu vực bán đảo Myanmar và Thái Lan. Lửng lợn là đại diện của khu hệ Stegodon-Ailuropoda trong trầm tích Pleixtôxen trung-muộn ở Trung Quốc và Đông Nam Á. Từ dấu tích các mảnh răng thu được tại hang Làng Tráng, các nhà khoa học đã mô tả về loài lửng lợn lớn này. Kết quả phân tích cho thấy, các răng hàm M1 và M1 là những dấu hiệu đặc trưng của loài Arctonyx collaris Cuvier, 1825. Đồng thời chiều dài của mẫu răng M1 tại hang Làng Tráng hơn hẳn những cá thể lửng lợn hiện nay. Căn cứ vào kích thước và cấu tạo của các dấu tích hóa thạch răng có thể xem nó là một phần của phụ loài A. collaris rostratus Matthew et Granger, 1923 đã bị tuyệt chủng.

*

Các mẫu răng của loài lửng lợn Arctonyx collaris rostratus Matthew et Granger, 1923 trong Pleixtôxen thượng tại hang Làng Tráng, tỉnh Thanh Hóa

3. Nhím lớn Hystrix kiangsenensis Wang, 1931Hiện nay, Hystrix brachyura Linnaeus, 1758 là loài nhím phổ biến ở khu vực Đông Nam Á. Nó có 3 phụ loài là H. b. hodgsoni Gray, 1847 phân bố ở Nepal và Đông Ấn Độ, H. b. subcristata Swinhoe, 1870 phân bố ở Ấn Độ, Nam Trung Quốc, Singapore, Myanmar, Thái Lan, Lào, Việt Nam, Campuchia và 1 phụ loài chỉ định ở Malacca, Sumatra, Kalimantan. Một số nghiên cứu trước đây về dấu tích răng thu được từ trầm tích cổ ở hang Làng Tráng đã xác định là loài Hystrix brachyura Linnaeus, 1758 hoặc H. indica Kerr, 1792. Tuy nhiên, căn cứ vào các mẫu răng thu được trong năm 2020 và kết quả phân tích dữ liệu kích thước răng má, chiều dài của răng tiền hàm, vị trí hệ thống của răng, so sánh đối chiếu với loài nhím khác của Việt Nam đã xác định được mẫu ở hang Làng Tráng thuộc về loài Hystrix kiangsenensis Wang, 1931.

*

Các mẫu răng của loài nhím Hystrix kiangsenensis Wang, 1931 thu được trong trầm tích của hang Làng Tráng

4. Don Atherurus macrourus (Linnaeus, 1758)Khu hệ don hiện đại có 2 đại diện – loài Châu Phi có tên khoa học là A. africanus Gray, 1842 và loài Châu Á có tên là A. macrourus (Linnaeus, 1758). Loài A. macrourus hiện đang sống ở Đông Ấn Độ, Bangladesh, Bhutan, Nam Trung Quốc, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam và bán đảo Malaysia. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện được hóa thạch của loài A. macrourus trong trầm tích Pleixtôxen ở Malaysia, Thái Lan và Trung Quốc. Ngoài ra, ở Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam cũng đã ghi nhận được các mẫu vật của loài A. karnuliensis Lydekker, 1886 đã bị tuyệt chủng. Năm 2020, khi tiến hành khai quật tại hang Bụt, tỉnh Thanh Hóa, các nhà nghiên cứu đã thu thập được một số mẫu răng hàm dưới cùng các mẩu răng khác từ ranh giới trầm tích Holoxen-Pleixtôxen và đã mô tả xác định là loài A. macrourus. Kết quả phân tích cho thấy, chiều dài trung bình răng má của loài don này lớn loài don hiện đại, nhưng nhỏ hơn một chút so với loài A. karnuliensis đã bị tuyệt chủng. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam phát hiện được hóa thạch của loài này.

*

Các mẫu răng của loài Don Atherurus macrourus (Linnaeus, 1758) thu được trong trầm tích Pleixtôxen thượng-Holoxen hạ ở hang Bụt

5. Chuột mù mới Typhlomys stegodontis sp. nov.Chuột mù Typhlomys chapensis Osgood, 1932 là rất quý hiếm và đặc hữu cho Việt Nam, nhưng còn ít được nghiên cứu. Cho đến gần đây, ở Việt Nam chưa ghi nhận được dữ liệu nào về hóa thạch của loài này, nhưng tại Trung Quốc đã phát hiện được dấu tích của loài trong trầm tích Mioxen thượng và trẻ hơn. Năm 2021, khi tiến hành khảo sát tại các hang Thẩm Khuyên và Thẩm Hai thuộc tỉnh Lạng Sơn, các nhà nghiên cứu đã thu thập được các mảnh xương hàm trên, các răng độc lập trong trầm tích Pleixtôxen trung và mô tả xác định được loài mới Typhlomys stegodontis sp. nov. Đây là lần đầu tiên phát hiện được hóa thạch của loài này ở Việt Nam.

*

Mẫu răng của loài Typhlomys stegodontis Lopatin, 2021 thu được trong trầm tích Pleixtôxen trung ở hang Thẩm Hai

6. Vượn khổng lồ Gigantopithecus blacki von Koenigswald, 1935Vượn Gigantopithecus blacki von Koenigswald, 1935 là loài lớn nhất trong toàn bộ lịch sử của bộ linh trưởng và khá phổ biến trong trầm tích Pleixtôxen ở miền Nam Trung Quốc, miền Bắc Việt Nam và miền Bắc Thái Lan. Cho đến nay, các nhà khoa học đã tìm thấy những dấu tích của loài G. blacki khá phổ biến trong Pleixtôxen trung và hạ có tuổi từ 2 đến 0,3 triệu năm nhưng rất hiếm gặp ở trầm tích Pleixtôxen thượng. Năm 2020 khi khảo sát hang Làng Tráng ở huyện Bá Thước, tỉnh Thanh Hóa các nhà nghiên cứu đã thu được mẫu răng nguyên vẹn của răng bên phải và một mảnh ở phần xa của răng bên trái của loài trong trầm tích Pleixtôxen thượng. Đây là lần đầu tiên ở Việt Nam phát hiện được các dấu tích loài này trong trầm tích Pleixtôxen thượng và là lần thứ 2 phát hiện được trong Pleixtôxen thượng nếu tính cả các mẫu thu được từ hang Shuantan ở miền Nam Trung Quốc. Các nhà khoa học cho rằng, loài G. blacki có thể bị tuyệt chủng trong thời kỳ chuyển tiếp giữa Pleixtôxen trung và Pleixtôxen hạ. Những mẫu vật thu được tại hang Làng Tráng thuộc về một trong những quần thể còn sót lại của loài.

Xem thêm: Trải nghiệm đội hình leicester city vô địch ngoại hạng anh giờ ra sao? ?

*

Các mẫu răng của loài Gigantopithecus blacki von Koenigswald, 1935 thu được trong trầm tích Pleixtôxen thượng ở hang Làng Tráng

Tin bài: Nguyễn Quốc Khánh

Nguồn tài liệu:Lopatin A.V., Mashchenko E.N., Vislobokova I.A., Serdyuk N.V, Le Xuan Dac (2021). Pleistocene mammals from the Lang Trang cave (Vietnam): new data, Doklady Biological Sciences, 496: 5-9.Лопатин А.В. (2021). Новый вид Typhlomys (Platacanthomyidae, Rodentia) из среднего плейстоцена северного Вьетнама // Доклады Российской Академии наук. Науки о жизни. 2021. Т. 501. № 1. С.505-510.Лопатин А.В. (2021). Ископаемый большехвостый дикобраз Atherurus macrourus (Hystricidae, Rodentia) из северного Вьетнама (пещера Буд, рубеж плейстоцена и голоцена) // Доклады Российской Академии наук. Науки о жизни. 2021. Т. 497. С.113-117.Лопатин А.В. (2020). Большой кожан Ia io (Vespertilionidae, Chiroptera) из плейстоцена Вьетнама (пещера Лангчанг) // Доклады Российской Академии наук. Науки о жизни. 2020. Т. 495. № 6. С.572-576.Лопатин А.В. (2020). Большой свиной барсук Arctonyx collaris (Mustelidae, Carnivora) из плейстоцена Вьетнама (пещера Лангчанг) // Доклады Российской Академии наук. Науки о жизни. 2020. Т. 495. № 6. С.577-580.Лопатин А.В. (2020). Систематическое положение крупного дикобраза (Hystrix, Hystricidae, Rodentia) из плейстоцена Вьетнама (пещера Лангчанг) // Доклады Российской Академии наук. Науки о жизни. 2020. Т. 495. № 6. С.581-585.Лопатин А.В. (2020). Систематическое положение крупного дикобраза (Hystrix, Hystricidae, Rodentia) из плейстоцена Вьетнама (пещера Лангчанг) // Доклады Российской Академии наук. Науки о жизни. 2020. Т. 495. № 6. С.581-585.

By admin-thachdau

Related Post

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *